Trong quá trình quản lý kinh tế và xã hội, chính phủ thường phải huy động nguồn vốn từ các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước để đầu tư vào nhiều mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Các khoản vay này thường được gọi là nợ công. Tình trạng nợ công tại Việt Nam hiện nay đang ở mức khá cao và tiếp tục tăng lên theo thời gian. Vậy nợ công là gì? Hãy cùng CryptoViet tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Nợ công là gì?
Nợ công là số tiền mà chính phủ của một quốc gia mượn từ các cá nhân, tổ chức hay nước ngoài để chi tiêu cho các hoạt động của chính phủ như đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, quốc phòng, chính trị, kinh tế, v.v.
Nợ công được thể hiện thông qua các khoản vay và trái phiếu chính phủ. Việc tăng nợ công sẽ tạo ra các khoản lãi suất và tiền lãi cho các khoản vay đó. Nếu nợ công không được quản lý tốt, có thể dẫn đến khó khăn tài chính và tăng độ nợ của quốc gia, gây ra các vấn đề về kinh tế và xã hội. Do đó, quản lý nợ công là một vấn đề quan trọng đối với các chính phủ.
Phân loại nợ công
Nợ công có thể được chia thành 2 loại đó là:
- Nợ trong nước: Đây là các khoản vay được chính phủ mượn từ các ngân hàng và các cá nhân, tổ chức trong nước.
- Nợ nước ngoài: Đây là các khoản vay được chính phủ mượn từ các tổ chức tài chính và chính phủ của các quốc gia khác.
Và nợ công cũng có thể được chia thành ba loại dựa trên thời hạn:
- Nợ ngắn hạn: Là các khoản vay có thời hạn trả nợ trong vòng 1 năm.
- Nợ trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn trả nợ từ trên 1 năm đến 10 năm.
- Nợ dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trả nợ trên 10 năm.
Nguyên nhân diễn ra nợ công
- Đầu tiên, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại, việc huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội đang đối mặt với áp lực lớn.
- Thứ hai, chi ngân sách Nhà nước tăng cao trong thời gian dài đã làm cho việc vay nợ trở thành nguồn tài nguyên để bù đắp.
- Thứ ba, đầu tư công đang đối mặt với hai thách thức: tỷ lệ hiệu quả đầu tư vẫn còn thấp, trong khi đó, việc tiết kiệm tại Việt Nam đang giảm.
- Thứ tư, huy động, phân bổ và sử dụng vốn vay của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn và dàn trải không đồng đều.
Thực trạng nợ công hiện nay
Theo thống kê của Bộ Tài chính Việt Nam, nợ công của Việt Nam chiếm 63,7% GDP vào năm 2016 và giảm xuống còn 62,6% GDP tính đến ngày 31/12/2017. Trong đó:
- Nợ chính phủ chiếm khoảng 51,8% GDP.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 10% GDP.
- Nợ của chính quyền địa phương chiếm khoảng 0,8% GDP.
- Nợ nước ngoài của quốc gia chiếm khoảng 45,2% GDP.
Bộ Tài chính dự báo nợ công vẫn duy trì ở mức cao vào năm 2018, khoảng 64,7% GDP. Tại cùng thời điểm, Ngân hàng Thế giới cho rằng nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá mức an toàn vào năm 2018.
Tính đến cuối năm 2014, tổng nợ công của Việt Nam, bao gồm nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương, được ước tính là 2,35 triệu tỷ đồng (khoảng 110 tỷ USD). Nếu tính theo tỷ lệ tương đối so với GDP (186,2 tỷ USD), thì nợ công theo tính toán của WB tương đương 59%.
Tính đến cuối năm 2015, dư nợ công tăng lên mức 2.608 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ đồng) về số tuyệt đối. Về số tương đối, nợ công/GDP vào cuối năm 2015 ở mức 62,2%, gần đạt ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.
Theo Báo cáo về tình hình vay nợ của Chính phủ năm 2017 và kế hoạch năm 2018 được gửi đến Quốc hội, dư nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng đáng kể từ năm 2016, chủ yếu do nợ tự vay tự trả của các doanh nghiệp tăng mạnh.
Trong năm 2016, dư nợ nước ngoài đã tăng 14,5% so với năm 2015, trong đó nợ của Chính phủ tăng 8,6%, nợ được Chính phủ bảo lãnh tăng 3%, và nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp tăng 26,8%. Tổng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Việt Nam so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là 29,7%, vượt quá giới hạn cho phép là 25%.
Đến hết năm 2016, tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam đạt 2.013.681 tỉ đồng, tương đương 44,7% GDP. Mặc dù con số này vẫn trong giới hạn an toàn (dưới 50%), nhưng chỉ số nợ nước ngoài của Việt Nam có xu hướng tăng cao hơn so với năm trước, chủ yếu do quy mô vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp tăng nhanh. Tốc độ tăng dư nợ của các khoản vay trung và dài hạn đạt 30,4%, trong khi các khoản vay ngắn hạn tăng 20,4% so với năm 2015. Điều này kéo theo nghĩa vụ trả nợ tăng gấp đôi lên 29,7% so với 12,4% của năm 2015, do hoạt động rút vốn và trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài ngắn hạn của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng trong năm 2016.
“Nợ công đang tăng nhanh”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng thừa nhận và cho biết rằng, tính riêng quy mô dư nợ nước ngoài của Chính phủ đến cuối năm 2015 (bao gồm vay ODA và vay ưu đãi chiếm trên 94%) đã tăng 6,5 lần so với năm 2001. Khoản dư nợ này chủ yếu tập trung vào 3 nhà tài trợ chính là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) với tăng 20,3 lần, Ngân hàng Thế giới (WB) với tăng 11,5 lần và Nhật Bản với tăng 6,8 lần…
Những tác động của nợ công
Tích cực
- Hỗ trợ đầu tư (Việc vay nợ nước ngoài có thể giúp chính phủ hỗ trợ các dự án đầu tư quan trọng, đáp ứng nhu cầu vốn và công nghệ mà chính phủ không đủ tiềm lực để đảm bảo.)
- Không gây lạm phát (Thay vì phát hành tiền để đáp ứng thâm hụt ngân sách, việc vay nợ nước ngoài giúp chính phủ tránh được nguy cơ gây ra lạm phát cao.)
Tiêu cực
Ảnh hưởng tiêu cực của các chính sách thắt chặt chi tiêu:
Khi nợ công quá lớn, để giảm thâm hụt ngân sách và đáp ứng được sự hỗ trợ từ các tổ chức tín dụng quốc tế, chính phủ phải thực hiện các chính sách thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”. Điều này có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và có thể đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng kép.
Hạ bậc tín nhiệm:
Khi nợ công liên tục tăng cao, các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm của các công ty và quốc gia khác có thể hạ bậc tín nhiệm của nền kinh tế. Điều này làm giảm niềm tin của người dân và giới đầu tư. Để huy động tiền từ thị trường tài chính, chính phủ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn, gây ra sự rối loạn tài chính và dẫn đến tụt bậc tín nhiệm tiếp theo.
Tác động của nợ chính phủ đến tăng trưởng kinh tế:
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn, khoản nợ chính phủ lớn sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng sản lượng tiềm năng chậm lại.
Gánh nặng cho toàn bộ nền kinh tế cùng với rủi ro chênh lệch tỉ giá:
Mức độ nợ công cao sẽ kéo theo mức bội chi ngân sách lớn và dần dần trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây, Chính phủ đang triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn như nhà máy điện nguyên tử, đường sắt cao tốc, vì vậy tỷ lệ nợ nước ngoài có thể tăng đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình này, đã có lúc Chính phủ phải vay vốn với tỷ giá chỉ khoảng 11 nghìn đồng Việt Nam quy đổi bằng 1 USD, trong khi hiện tại tỷ giá đã tăng lên đến hơn 20 nghìn đồng Việt Nam quy đổi bằng 1 USD. Như vậy, sự chênh lệch về tỷ giá này đang gây tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam.
Giải pháp xử lý nợ công
Để đảm bảo chỉ số nợ công và nợ Chính phủ trong giới hạn cho phép, không vượt quá 65% GDP và 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không vượt quá 25% tổng thu NSNN hàng năm, từng bước giảm dần quy mô nợ công khoảng 60% GDP vào năm 2030 (theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV), cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đổi mới nợ công phải được kết hợp với việc tái cơ cấu NSNN theo hướng lành mạnh và ổn định:
- Cơ cấu lại thu NSNN theo hướng ổn định và bền vững.
- Cơ cấu lại chi NSNN theo hướng giảm và tiết kiệm chi thường xuyên.
Hai là, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc, vì đây chính là nguồn gốc cơ bản tạo ra nguồn thu NSNN vững bền để trả nợ công.
Ba là, điều hành lãi suất, tỷ giá và lạm phát linh hoạt, giảm thiểu rủi ro lãi suất, tỷ giá và rủi ro tín dụng của nợ công trong thời gian tới.
Bốn là, đổi mới căn bản tổ chức quản lý nợ công, bao gồm cơ chế quản lý, hành lang pháp lý và con người thực hiện.
Lời kết
Trên đây là những thông tin về tình hình nợ công hiện nay cũng như những giải pháp để đảm bảo tình hình nợ công ở mức ổn định trong tương lai. Việc quản lý nợ công là một vấn đề rất quan trọng và cần được tập trung giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Để thực hiện các giải pháp trên cần sự thống nhất và nỗ lực của toàn bộ xã hội, đặc biệt là sự đồng thuận của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể giải quyết được vấn đề nợ công một cách hiệu quả và đạt được mục tiêu phát triển kinh tế bền vững trong tương lai.
Trả lời