
Tiền kỹ thuật số là gì?
Tiền kỹ thuật số là một dạng tiền tệ sử dụng để thanh toán, tồn tại dưới dạng số liệu kỹ thuật số mà không có hình dạng vật lý như tiền xu hay tiền giấy. Phát hành, giao dịch và lưu trữ tiền kỹ thuật số đều thực hiện qua mạng. Để sử dụng tiền kỹ thuật số, bạn cần một thiết bị có kết nối internet như máy tính hoặc điện thoại.
Hiện tại, số lượng người dùng tiền kỹ thuật số vẫn còn hạn chế nhưng tăng nhanh. Đồng thời, công nghệ tiền kỹ thuật số cũng đang phát triển mạnh mẽ. Các loại tiền kỹ thuật số hiện có cũng đang đa dạng, ví dụ như tiền điện tử, tiền ảo và CBDC (tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương).
Lịch sử hình thành của tiền kỹ thuật số
Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, máy tính phát triển cực thịnh. Trong thời gian đó, phong trào Cypherpunk (những người hỗ trợ sử dụng mật mã và công nghệ bảo mật) đã xuất hiện. Một trong những ý tưởng độc đáo của phong trào này là sự xuất hiện của tiền kỹ thuật số. Loại tiền này sẽ bảo vệ quyền riêng tư của người sử dụng trong thời đại công nghệ. Trong giai đoạn này, một số tiền kỹ thuật số được nhắc đến là:”
E-gold
E-gold là một loại tiền kỹ thuật số đầu tiên được thương mại hóa thành công. Nó được phát hành bởi công ty Gold & Silver Reserve Inc năm 1996 và đạt đỉnh với tổng giá trị giao dịch trên hệ thống đạt 2 tỷ USD năm 2006. Tuy nhiên, E-gold bị đình chỉ hoạt động năm 2009 do vướng vào vòng lao lý.
Bit gold
Bit Gold là một dự án của Nick Szabo để xây dựng một loại tiền kỹ thuật số. Nó được đề cập lần đầu tiên năm 1998, nhưng không được thực hiện vì một số vấn đề kỹ thuật và pháp lý. Bit Gold đã được xem như một trong những nền tảng cho sự ra đời của Bitcoin vào năm 2009.
Hash Cash
HashCash là một giải pháp bảo mật được sử dụng để chống lại spam và tấn công tập tin. Nó được xây dựng dựa trên một thuật toán băm hash và yêu cầu người gửi phải tạo ra một tập tin bảo mật để xác minh tính hợp lệ của tin nhắn của họ. Hash Cash đã được sử dụng trong các giải pháp bảo mật cho các mạng lưới và trong Bitcoin như một phần của thuật toán Proof of Work.
B-money
B-money là một loại tiền kỹ thuật số đề xuất bởi một người Đức tên Wei Dai trong một bài viết vào năm 1998. Nó được đề xuất như một tiền kỹ thuật số mà không cần một trung tâm hoặc tổ chức trung lập, và sẽ được tạo ra và giải quyết bằng một thuật toán tự động. Tuy nhiên, B-money không được thực hiện và chưa được sử dụng rộng rãi.
Satoshi Nakamoto đăng trên diễn đàn năm 2010 rằng “Bitcoin là sự triển khai B-money của Wei Dai và Bitgold của Nick Szabo”. Wei Dai và Adam Back là hai người đầu tiên được Satoshi Nakamoto liên hệ khi ông đang phát triển Bitcoin vào năm 2008.
Phân biệt tiền kỹ thuật số với tiền ảo và tiền điện tử
Tiền kỹ thuật số là những loại tiền tệ đã được số hóa và hoạt động dựa trên các thuật toán điện tử. Tiền kỹ thuật số còn được gọi là tiền mã hoá (cryptocurrency) hay tiền thuật toán. Nhưng tiền kỹ thuật số KHÔNG HẲN là tiền điện tử vì khái niệm tiền điện tử bao hàm rộng lớn hơn.
Theo định nghĩa của Ngân hàng Trung ương Châu Âu – ECB:
Tiền điện tử là giá trị tiền tệ được lưu trữ trên một thiết bị điện tử được sử dụng phổ biến để thực hiện giao dịch thanh toán cho các tổ chức khác không phải là tổ chức phát hành.
Còn Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) định nghĩa tiền điện tử như sau:
Tiền điện tử là giá trị được lưu trữ hoặc sản phẩm trả trước, trong đó thông tin về khoản tiền hoặc giá trị khả dụng của khách hàng được lưu trữ trên một thiết bị điện tử thuộc sở hữu của khách hàng.
Có thể nói, định nghĩa này hơi phức tạp, có thể gây ra nhầm lẫn về nội hàm của tiền điện tử, khó phân biệt với tiền ảo, tiền kỹ thuật số và thậm chí là cả tiền di động (mobile money).
Trong thực tế, tiền điện tử là loại tiền phải có đặc điểm chính đó là một loại tiền pháp định (legal tender) và 3 chức năng của tiền tệ bao gồm:
- Dự trữ (store value)
- Trao đổi (medium of exchange)
- Hạch toán (unit of account)
Đồng thời, tiền điện tử cũng luôn được thể hiện dưới dạng giá trị của tiền pháp định của một quốc gia (thí dụ VND, USD, SGD…). Bên cạnh đó, tiền điện tử cũng được Ngân hàng Trung ương (NHTW) bảo đảm.
Trong khi đó, ECB định nghĩa tiền ảo (virtual currency) như sau:
Đồng tiền ảo là một loại tiền kỹ thuật số không chịu sự quản lý, được phát hành bởi những người phát triển phần mềm (developers) thường đồng thời là người kiểm soát hệ thống; được sử dụng và chấp nhận thanh toán giữa các thành viên của một cộng đồng ảo nhất định.
Ví dụ, các loại tiền trong game là một loại tiền ảo sử dụng trong cộng đồng game thủ.
Có thể thấy, rõ ràng tiền ảo và tiền điện tử rất khác nhau. Tiền ảo không phải là tiền pháp định nên không gắn với quyền mặc định được chuyển đổi sang tiền pháp định và được NHTW đảm bảo.
Hiện tại thì tiền kỹ thuật số hay tiền mã hóa (cryptocurrency) chưa có định nghĩa thống nhất từ các cơ quan quản lý có thẩm quyền nhưng hầu như chúng được tạo ra bởi các thuật toán mã hóa phức tạp, được giao dịch, trao đổi hoàn toàn trên môi trường Internet và hiện nay chưa chịu sự quản lý của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào (trừ khi được NHTW trực tiếp phát hành mà sau này chúng ta sẽ gọi là Central Bank Digital Currency – CBDC).
CryptoViet tổng hợp

Trả lời