Theo Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra những cơn sóng theo như hình vẽ dưới đây:
Mô hình sóng cơ bản theo lý thuyết sóng Elliott bao gồm:
- 5 sóng chủ (Impulsive Wave) được đánh số theo thứ tự 1-2-3-4-5
- 3 sóng điều chỉnh (Corrective Wave) được đánh số theo chữ cái A-B-C
Trong 5 sóng chủ, sóng số 1, 3 và 5 được gọi là sóng “chủ và động” (Motive Wave), và sóng số 2 và 4 gọi là sóng “chủ và điều chỉnh” (Corrective Wave). Trong mỗi sóng chủ, lại có những sóng nhỏ hơn và tuân theo quy luật của lý thuyết sóng Elliott.
Một đợt sóng chủ hoàn chỉnh sẽ có 89 sóng và đợt sóng điều chỉnh hoàn chỉnh sẽ có 55 sóng. Kết hợp lại, mô hình 8 sóng hoàn chỉnh tạo thành cấu trúc sóng Elliott điển hình. Mô hình này có thể diễn ra theo chiều tăng (Ascending) trong thị trường tăng giá hoặc chiều giảm (Descending) trong thị trường giảm giá. Nếu xu hướng chính là tăng giá, chúng ta sẽ thấy 5 bước sóng chạy lên theo sau là 3 bước sóng chạy xuống. Nếu xu hướng chính là giảm giá, chúng ta sẽ thấy 5 bước sóng chạy xuống theo sau là 3 bước sóng chạy lên để điều chỉnh xu hướng chính.
Ralph Nelson Elliott cho rằng ông đã nghiên cứu và phát minh ra lý thuyết sóng trước khi biết đến dãy số Fibonacci. Tuy nhiên, những con số trùng hợp trong lý thuyết của ông, như 5 sóng chủ, 3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh và tỷ lệ giá của các sóng luôn nằm trong khoảng các tỷ lệ vàng như 0,618, 1,618, 0,328… đã dẫn đến giả thuyết rằng ông đã ứng dụng dãy số Fibonacci vào lý thuyết của mình.
Trả lời